Một số bệnh thường gặp ở Thỏ
Một số bệnh thường gặp ở Thỏ by ST | Mot so benh thuong gap o tho
1. Bệnh tụ huyết trùng
- Nguyên nhân: do vi khuẩn Pasteurella multocida gây ra, bệnh lây lan nhanh qua đường hô hấp. Bệnh có thể xảy ra trên mọi lứa tuổi của thỏ và được xem là bệnh nguy hiểm bật nhất đối với thỏ.
- Triệu chứng: Thỏ kém ăn, sốt cao 41 – 42 độ C, khó thở, kết mạc mắt đỏ, chảy nước mũi có lẫn dịch nhờn, tiêu chảy , gầy yếu dần và chết sau 2 – 5 ngày thể hiện bệnh. Bệnh ở thể cấp tính thỏ chết rất nhanh chỉ trong vài giờ biểu hiện bệnh, hầu như không thể hiện rõ triệu chứng.
- Phòng bệnh: không nên nhốt thỏ vào chuồng gà, chuồng heo vì có nguy cơ lây bệnh từ các loại vật nuôi này. Tăng sức đề kháng cho thỏ bằng cách định kỳ cho thêm vitamin vào thức ăn, hoặc hòa vào nước uống của thỏ. Đặc biệt, vào các thời điểm giao mùa nên sử dụng các kháng sinh (Streptomycin, Kanamycin…) với liều phòng bằng 1/2 liều điều trị để phòng bệnh. Đồng thời, người nuôi cần tăng cường công tác sát trùng tiêu độc chuồng trại bằng các dung dịch như nước Javen (thuốc tẩy quần áo), phenol 2 %, hoặc formol,… Chúng ta có thể phòng bệnh cho thỏ bằng cách tiêm phòng vacxin.
- Cách điều trị: sử dụng thuốc đặc trị Streptomycin với liều 0,01g/ kg thể trọng, hoặc dùng Kanamycin với liều 0,05g/kg thể trọng, hoặc có thể oreomixin, teramixin ... để điều trị.
2. Bệnh ghẻ
- Nguyên nhân: do một số loại ký sinh trùng ngoại sinh gây ra, ghẻ đầu do loài ký sinh trùng Notoedres gây ra, bệnh thường xuất hiện ở mí mắt, mũi, mép, móng chân, gót chân, da vùng hậu môn và cơ quan sinh dục, ghẻ tai do loài Psoroptes ký sinh, gây bệnh ở lỗ tai và vành tai. Bệnh thường xảy ra khi điều kiện chăn nuôi vệ sinh kém, bệnh xảy ra ở mọi lứa tuổi của thỏ.
- Triệu chứng: Bệnh xảy ra khá phổ biến trên thỏ, thường xuất hiện vào mùa hè. Bệnh không gây chết thỏ ngay nhưng thiệt hại về kinh tế rất lớn, do mức độ lây lan trong đàn rất nhanh, làm thỏ gầy yếu, chậm lớn. Một số dấu hiều để nhận biết thỏ bệnh: thỏ thường gãy ngứa, rụng lông và đóng vảy. Ở các điểm ghẻ ban đầu thấy rụng lông, sau đó thấy các vảy rộp máu trắng xám, dầy dần lên và khô cứng lại. Đôi khi dưới vảy ghẻ có mủ do nhiễm trùng gây viêm da. Thỏ không yên tĩnh, kém ăn, gầy dần và chết.
- Phòng bệnh: thỏ nuôi cần được đảm bảo vệ sinh và chăm sóc nuôi dưỡng tốt. Chuồng nuôi phải khô ráo, sạch sẽ, thoáng mát, mật độ nuôi vừa phải. Thường xuyên kiểm tra, cách ly và điều trị kịp thời những con có biểu hiện bệnh. Có thể sử dụng thuốc Ivermectin để phòng bệnh ghẻ với liều phòng bằng 1/2 liều điều trị, cách 3 tháng tiêm lặp lại.
- Cách điều trị: thuốc đặc trị là Ivermectin 2.5 (hoặc Bivermectin), sử dụng tiêm dưới da. Liều dùng: 1 ml/ 12 - 15 kg thể trọng, tiêm dưới da. Ngoài ra có thể dùng hỗn hợp gồm 1 phần iodoform, 10 phần ête, và 25 phần dầu thực vật để bôi vào vết ghẻ. Sau khi các vết ghẻ bong da thì lặp lại điều trị một lần nữa kéo dài 6 - 10 ngày, hoặc lau vết thương bằng xà phòng khi vẫy (mài ghẻ) đã mềm thì nhẹ nhàng lấy ra, sau đó bôi dung dịch benzoat benzin. Giữ vệ sinh chuồng trại sạch sẽ và cách ly những con thỏ bị bệnh.
3. Bệnh tiêu chảy, bụng chướng hơi
- Nguyên nhân: Bệnh xảy ra do thỏ ăn phải thức ăn chất lượng xấu; thức ăn bị chua, ôi thiu, ẩm mốc có độc tố; hoặc do thay đổi thức ăn quá đột ngột làm rối loạn tiêu hóa. Các loại thức ăn thô xanh chưa xử lý chứa quá nhiều nước cũng có thể là nguyên nhân gây bệnh. Bệnh tiêu chảy thường xảy ra trên thỏ giai đoạn sau cai sữa và thỏ trưởng thành.
- Triệu chứng: Thỏ bị chướng hơi, bụng phình to, không yên tĩnh, khó thở, chảy nước dãi ướt lông quanh 2 mép và thỏ bị tiêu chảy. Hiện tượng tiêu chảy có nhiều dạng: Phân lỏng, màu xám lẫn màng nhày, bọt khí, lòng dạ dày có chất nhày trắng, ruột có màu hồng; Phân ra ít, lỏng, mềm, bụng thỏ căng, ruột tích hơi, chảy máu; Phân lỏng như nước, màu đen, rất hôi thối. Thỏ có thể chết nhanh do mất nước, chất điện giải và ngạt thở.
- Phòng bệnh: Sử dụng thức ăn sạch, đảm bảo chất lượng, hợp vệ sinh; Khi thay đổi nguồn thức ăn, cần chuyển tiếp từ từ cho thỏ quen dần; cần phơi hoặc dự trữ trước 1 ngày đối với các loại thức ăn xanh có chứa quá nhiều nước.
- Điều trị: Ngưng ngay các loại thức ăn, nước uống và những yếu tố gây mất vệ sinh. Có thể sử dụng Streptomycin pha loãng cho uống 2 – 4 lần/ ngày, hoặc cho uống ta-nin 1%, hoặc xintominxin, biomixin theo hướng dẫn của nhà sản xuất, kết hợp với việc sử dụng nước chiết xuất từ các loại lá có chất chát như búp ổi, búp trà,... và tiêm hoặc uống Vitamin A, B để tăng sức đề kháng.
4. Bệnh xuất huyết truyền nhiễm (Rabbit Hemorrhagic Disease – RHD)
- Nguyên nhân: Bệnh xuất huyết truyền nhiễm (PHD) do vi rút Calicivirus gây ra. Theo Ngô Đức 2012. Bệnh xuất huyết do vi rút trên thỏ do vi rút Calicivirus là một bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm cho cả thỏ nuôi và thỏ hoang dại. Mần bệnh tấn công lên thỏ ở mọi lứa tuổi, tuy nhiên những biểu hiện lâm sàng chỉ quan sát được ở thỏ từ 2 tháng tuổi trở lên. Tỷ lệ chết trong đàn thỏ nuôi bị nhiễm bệnh có thể biến động từ 40 – 100%.
- Phương thức truyền lây bệnh: bệnh có thể lây truyền bằng nhiều con đường khác nhau, lây trực tiếp do tiếp xúc trực tiếp với thú bệnh hoặc gián tiếp thông qua xác thú đông lạnh hoặc các sản phẩm từ thỏ bênh; qua trang thiết bị, thức ăn bị nhiễm mầm bệnh; qua các véc tơ truyền bệnh từ chuột, người nuôi… Vi rút hiện diện trong dịch bài tiết, máu và nội tạng, trong giai đoạn muộn, vi rút có thể tìm thấy ở da và niêm mạc. Khả năng lây bệnh qua không khí và côn trùng trung gian chưa được chứng minh.
- Triệu chứng: bệnh có thể biểu hiện dưới 3 thể lâm sàng.
+ Thể siêu cấp tính: thỏ chết đột ngột sau khi bị nhiễm 10 - 12 giờ mà không có triệu chứng lâm sàng nào, biểu hiện rõ nhất là thỏ giãy giụa mạnh trước khi chết. Thể này thường gặp vào giai đoạn đầu của ổ dịch.
+ Thể cấp tính: thỏ sốt cao 41 độ C; lúc đầu thỏ có biểu hiện lờ đờ, di chuyển chậm chạp, trước khi chết trở nên bị kích động, chạy khắp chuồng, co giật, run cơ, kêu ré lên. Một vài thỏ có biểu hiện nghẹt thở do xoang mũi có dịch lẫn máu và bọt. Thể này thường xảy ra ở giai đoạn giữa của vụ dịch.
+ Thể mãn tính: thường thấy ở thỏ con dưới 3 tháng tuổi có trọng lượng cơ thể từ 1,0 - 2 kg và thường xảy ra ở giai đoạn sau của vụ dịch. Thỏ bị bệnh lờ đờ, giảm ăn và biếng ăn trong 1 - 2 ngày, biểu hiện gầy mòn, xù lông và tử vong.
+ Bệnh tích: Niêm mạc khí quản xuất huyết nặng, có thể chứa bọt lẫn máu; Phổi sung huyết, xuất huyết điểm kèm theo phù; Tim sung huyết, có thể kèm theo xuất huyết điểm ở nội tâm mạc; Tuyến ức phù dịch keo; Lách sưng to, sung huyết màu tím xanh; Gan sưng to, dễ vỡ, bề mặt nhám, xuất huyết nặng; Túi mật sưng to và dày; Tử cung ở thỏ có chửa sung huyết màng nhầy kèm theo xuất huyết điểm, chết thai; Thận sưng to từng phần, màu tím nhạt, sung huyết, xuất huyết điểm đầu đinh ghim ở vỏ thận; Bàng quang ứ đọng nước tiểu.
- Phòng trị bệnh: Khi thỏ đã phát bệnh việc điều trị hầu như không có kết quả do mầm bệnh là virus, vì vậy người nuôi chỉ phòng bệnh cho thỏ. Việc phòng bệnh xuất huyết thỏ trước tiên là áp dụng các biện pháp an toàn sinh học như: Kiểm dịch, cách ly nghiêm ngặt, không nhập thịt thỏ, con giống, thức ăn ở những vùng đang có dịch bệnh; công tác vệ sinh, sát trùng chuồng trại định kỳ, dùng các loại thuốc sát trùng chuồng trại theo hướng dẫn của cán bộ thú y hoặc có thể dùng Benkocid theo hướng dẫn của nhà sản xuất. Tiêm vắc xin phòng bệnh cho thỏ là phương pháp phòng bệnh quan trọng nhất. Liều dùng 1 ml/ 1 con thỏ từ 2 tháng tuổi trở lên, tiêm dưới da hoặc bắp thịt, cách 4 – 6 tháng có thể tiêm lặp lại.
* Lưu ý: Hiệu quả tốt nhất đối với người nuôi thỏ áp dụng phương pháp phòng là quan trọng nhất. Cần tiêm vắc xin phòng bệnh cho thỏ khi thỏ đạt từ 2 tháng tuổi trở lên, tiêm dưới da hoặc bắp thịt, cách 4 – 6 tháng có thể tiêm lặp lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét