Thứ Hai, 30 tháng 7, 2012

Kỹ thuật trồng Đậu Nành

Kỹ thuật trồng Đậu Nành


Kỹ thuật trồng đậu nành by CCVN | Ky thuat trong dau nanh

Đậu tương hay đỗ tương, đậu nành (tên khoa học Glycine max) là loại cây họ đậu (Fabaceae) giàu hàm lượng chất đạm prrotein, được trồng để làm thức ăn cho người và gia súc. Cây đậu tương là cây thực phẩm có hiệu quả kinh tế lại dễ trồng. Sản phẩm từ cây đậu tương được sử dụng rất đa dạng như dùng trực tiếp hạt thô hoặc chế biến thành đậu phụ, ép thành dầu đậu lành, nước tương, làm bánh kẹo, sữa đậu nành... đáp ứng nhu cầu đạm trong khẩu phần ăn hàng ngày của người cũng như gia súc.Ngoài ra, trong cây đậu tương còn có tác dụng cải tạo đất, tăng năng suất các cây trồng khác. Điều này có được là hoạt động cố định Nitơ của loài vi khuẩn Rhizobium cộng sinh trên rễ cây họ Đậu.


I. Thời vụ trồng
Đậu nành là cây ngắn ngày nên có thể bố trí vào các mô hình luân canh, xen vụ để tăng vòng quay của đất, đồng thời hạn chế nguồn sâu bệnh lưu tồn qua mùa vụ canh tác.
- Vụ đông xuân: Lượng ánh sáng đầy đủ, đậu nành trổ hoa sớm, thời gian sinh trưởng ngắn, thuận lợi cho việc thu hoạch và phơi hạt. Sâu bệnh ít phát triển.

- Vụ xuân hè: Nếu được chăm sóc và đầu tư kỹ thuật đúng mức, đậu nành sinh trưởng và phát triển tốt hơn vụ đông xuân, năng suất cao hơn. Nhưng vụ này sâu bệnh bộc phát mạnh, nhất là các đối tượng như dòi đục thân ở đầu vụ và sâu đục trái ở cuối vụ.

- Vụ hè thu: Thời gian chiếu sáng trong ngày dài nên đậu nành trổ hoa muộn, thời gian sinh trưởng kéo dài, mật độ trồng nên thưa hơn so với các vụ khác trong năm.

- Vụ thu đông: Mưa xuất hiện nhiều và liên tục, cần lưu ý chống úng cho cây.

II. Kỹ thuật trồng đậu nành
1. Chuẩn bị đất trồng
a) Trồng có làm đất
- Cày đất lúc có ẩm độ vừa phải. Tránh cày đất lúc còn quá ướt.

- Trường hợp đất quá khô, phải chủ động tưới nước và chờ đến khi đất có đủ độ ẩm thích hợp mới cày.

- Tránh làm đất quá tơi, khi gặp mưa, dễ bị đóng váng, cản trở việc hút nước, dinh dưỡng của cây, cây sinh trưởng yếu, các nốt sần ít và nhỏ.

- Ưu điểm: Diệt cỏ dại. Nâng cao độ tơi xốp của tầng đất mặt, tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thống rễ phát triển. Hạn chế việc bốc phèn.

- Nhược điểm: Tốn thời gian làm đất, do đó kéo dài thời vụ trồng, ảnh hưởng đến vụ sau. Tốn chi phí làm đất, tưới nước. Do đó việc làm đất chỉ nên áp dụng đối với những trường hợp đất quá khô, nhiều cỏ dại.

b) Cách trồng không làm đất
- Trên chân đất ruộng, tiến hành gieo đậu nành sau khi thu hoạch lúa, khi đất còn độ ẩm thích hợp. Có thể kết hợp phủ rơm để giữ ẩm.

- Trường hợp đất quá khô, có thể tưới tràn, sau đó tháo nước ra, ngày hôm sau tra hạt.

- Ưu điểm: Tranh thủ thời vụ, vì không phải chờ đợi thời gian làm đất. Giảm được chi phí trong khâu làm đất. Tận dụng được độ ẩm trong đất sau khi thu hoạch lúa, do đó tiết giảm chi phí tưới nước.

- Nhược điểm: Sâu bệnh phát triển nhiều hơn. Gặp trở ngại trong việc bón phân, nhất là các loại phân đòi hỏi phải trộn hoặc lấp xuống đất như phân lân, phân hữu cơ, vôi,….
(Đậu nành, ảnh chụp của đại học Cần thơ – ctu.edu.vn)

2. Mật độ trồng
- Áp dụng tỉa, lượng giống 70 – 80kg/ha. Nếu sạ, 100 – 120kg/ha.

- Mật độ trồng: Tỉa theo khoảng cách 40 x 10cm hay 30 x 20cm, mỗi hốc 3 cây (50 cây/m2), sau đó chừa lại 2 cây/lỗ. Mùa mưa trồng dày hơn: 30 x 15cm; mỗi hốc 3 cây (66 cây/m2 ), sau đó chừa lại 2 cây/lỗ.

- Gieo độ sâu: 2,5cm.

3. Phương pháp gieo
- Trước khi gieo, phơi lại hạt giống một nắng nhẹ trên nong, nia, cót, không được phơi trên nền xi măng, sân gạch. Gieo hạt khi đất đủ ẩm, trước khi gieo phải bón phân vào rãnh hoặc hốc, gieo hạt xong lấp một lớp đất tơi xốp dày 2 - 3cm.
Đối với đậu nành trên đất 2 vụ lúa: Trước khi gieo hạt, cho nước vào giúp đất đủ ẩm, sau đó rút sạch nước mặt, vạch thành hàng hay dùng que ấn thành hàng cách nhau 25 - 30cm để gieo hạt. Trên cùng một hàng gieo cách nhau 7-8 cm/hạt, hoặc theo khóm cách nhau 13 - 15cm, mỗi khóm 2 - 3 hạt, lấp hạt bằng đất trộn NPK hoặc phân chuồng hoai mục.

4. Bón phân
- Đậu nành có khả năng cố định đạm từ khí trời nhờ vi khuẩn Rhizobium jabonicum nên không cần bón nhiều đạm. Chú ý bón thêm lân và kali để cân đối NPK. Nên bón đạm vào thời kỳ đầu của giai đoạn tăng trưởng để kích thích bộ lá phát triển trước khi vi khuẩn nốt sần ở rễ lấy được đạm từ khí quyển để nuôi cây.

- Tùy theo từng loại đất, giống, mùa vụ mà có lượng phân bón cho thích hợp. Có thể áp dụng theo công thức sau:

- Công thức 1: 60kg urê, 120kg DAP, 80kg kali (tính cho 1ha).
+ Bón lót: 60kg DAP và toàn bộ phân chuồng.
+ 7 – 10 ngày sau khi gieo: bón 10kg urê, 60kg DAP.
+ 25 – 30 ngày sau khi gieo: bón 30kg urê, 30kg kali.
+ 35 – 40 ngày sau khi gieo: bón 20kg urê, 30kg kali.

- Công thức 2: 105kg urê, 300kg super lân, 80 kg kali.
+ Bón lót: 300kg super lân.
+ 7 – 10 ngày sau khi gieo: bón 25kg urê, 20kg kali.
+ 25 – 30 ngày sau khi gieo: bón 40kg urê, 30kg kali.
+ 35 – 40 ngày sau khi gieo: bón 40kg urê, 30kg kali.

- Nếu có điều kiện, bón thêm 5 - 6 tấn phân chuồng/ha, bón vào giai đoạn trước khi tra hạt (bón lót).

- Canh tác trên đất phèn, tùy vào độ chua của từng loại đất, có thể bón thêm 30 - 50kg vôi bột/công (1.000m2) vào giai đoạn bón lót.


III. Chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh
1. Chăm sóc
- Gieo dặm tỉa định cây: Khi đậu tương bắt đầu có lá thật, cần kiểm tra đồng ruộng nếu thấy cây chết, mất khoảng phải gieo dặm kịp thời để đảm bảo mật độ và sự đồng đều của ruộng đậu. Công việc này phải làm xong sau khi gieo 5 - 6 ngày.

- Tỉa định cây đối với đậu tương khi có 2 - 3 lá thật. Tỉa bỏ cây yếu, cây bị bệnh lở cổ rễ, để lại những cây khoẻ mạnh theo mật độ trên dưới 40 cây/m2.

- Tưới tiêu nước: Phải đảm bảo độ ẩm đất của ruộng đậu 70 - 80%. Nếu gặp hạn phải tưới nước, nhất là thời kỳ đậu tương ra hoa. Nhưng khi gặp mưa đối với chân ruộng thấp phải tiêu nước kịp thời. Ruộng quá ẩm sẽ làm tăng khả năng rụng nụ, hoa, quả non và sâu bệnh tăng lên.

2. Phòng trừ sâu bệnh
a) Bệnh gỉ sắt: (Phakopsora pachyrhisi.S)
- Bệnh do nấm Phakopsora pachyrhisi Sydow gây ra, phát triển mạnh từ khi đậu tương ra hoa làm cho lá khô vàng và rụng hoàng loạt.

- Phòng trừ: Sử dụng các giống đậu tương kháng hoặc nhiễm nhẹ bệnh như: TL 57, HL 92, ĐT 12, Đt 94, ĐT 95. Luân canh với các cây không phải họ đậu, tốt nhất là luân canh với lúa nước. Dùng 1 trong các loại thuốc: Copper B, Bentate pha nồng độ 15 - 20ml/bình 8 lít nước để phun.

b) Bệnh lở cổ rễ (Rihizotonia Phabeoli)
- Do nấm Rihizotonia Phabeoli gây hại phần gốc thân sát với mặt đất làm cho gốc bị thối dần và gẫy gục những lá non vẫn xanh nên có nơi còn gọi là bệnh héo xanh.

- Phòng trừ: Thực hiện tốt chế độ luân canh với cây trồng không thuộc họ đậu. Không để ruộng đậu tương quá ẩm và gieo hạt quá dày. Nhổ bỏ những cây bị bệnh đem tiêu huỷ. Sử dụng 1 trong các loại thuốc sau đây để phun: Starner, Validan 300 - 500DD nồng độ 15 - 20ml/bình 8 lít nước, Carabenzim 500 Fl nồng độ 20ml/bình 8 lít, Nasta 40 EC nồng độ 2 ml/ bình 8 lít.

c) Dòi đục thân (Agromyza Fahaseoli)
- Dòi đục gân lá, cuống lá rồi đục vào thân. Dòi trưởng thành gây hại càng lớn làm cho cây con bị chết ở giai đoạn 15 - 30 ngày tuổi.

- Phòng trừ: Dùng 1 trong các loại thuốc: Basudin 10H rải vào gốc cây đậu tương (2 - 3 hạt thuốc/gốc - lượng dùng 20kg/ha), Regent 800WP nồng độ 8gr/bình 8 lít. Regasuo 500 DD nồng độ 10ml/bình 8 lít, Padan 35SP nồng độ 20gr/bình 8 lít.
Đối với sâu đục thân, dòi đục nõn, rệp các loại gây hại thời kỳ cây con và quả non dùng 1 trong các loại thuốc: Padan 35 SP, Trebon 10 EC, Sherpa 25EC, Cyperan 25EC, 50EC, Kinalux 25EC phun định kỳ 7 ngày 1 lần.

d) Sâu đục quả non làm ảnh hưởng đến năng suất và phẩm chất hạt đậu tương
Cần phát hiện sớm để trừ diệt khi mật độ sâu còn thấp. Dùng 1 trong các thuốc sau để phun: Padan 35 SP nồng độ 20gr/bình 8 lít, lượng phun thuốc đã pha cho 1 ha hoặc dùng cyperan 25EC, 50EC, Alphan 5EC pha nồng độ 0,1 - 0,2% phun trước khi ra hoa 1 tuần.

IV. Thu hoạch
Khi 2/3 số quả chuyển từ màu xanh sang màu nâu xám lá chuyển màu vàng chọn thời tiết nắng ráo để thu hoạch, phơi, đập lấy hạt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến