Thứ Năm, 21 tháng 6, 2012

Kỹ thuật nuôi Nhím

Kỹ thuật nuôi Nhím


Kỹ thuật nuôi nhím by Hội ND BĐ | Ky thuat nuoi nhim

Nhím là một loài vật gặm nhắm, sống hoang dã dọc ở một số nước như Nêpan, Miến Điện, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Trung Quốc. Tại nước ta, chúng sống dọc theo các vùng đồi và trung du, rừng rậm. Nhím có giá trị kinh tế cao, dễ nuôi, ít bệnh tật, thức ăn đa dạng, chi phí nuôi không lớn, chủ yếu là tiền mua con giống.

I. Đặc điểm sinh học
1. Đặc điểm ngoại hình
Trong bộ gặm nhấm, nhím Bờm là loại lớn nhất, nặng trung bình từ 15 – 20kg, thân và đuôi dài từ từ 80 – 90cm. Hình dáng nặng nề, mình tròn, đầu to, mõm ngắn có 4 răng cửa dẹp và rất sắc, mắt nhỏ, tai nhỏ, chân ngắn (4 chi )2 chi ngắn hơn 2 chi trước, móng chân nhọn sắc. Trên lưng lông biến thành gai cứng, nhọn nhất là nửa lưng phía sau, dài từ 10 – 30cm. Đuôi ngắn, có những sợi lông phía đầu phình ra thành hình cốt rỗng ruột màu trắng. Nhím đực có mõ, đuôi dài hơn nhím cái, đầu nhọn, thân hình thon dài, tính tình hung dữ, hay lùng sục, đánh lại con đực khác để “bảo vệ lãnh thổ”. Nhóm cái có 6 vú nằm ở 2 bên sườn. Khi cho con bú nhím mẹ nằm úp bụng xuống đất.


2. Tập tính
- Nhím là loại động vật có tính gia đình rất cao, con đực chỉ chấp nhận ở cùng những nhím con do nó giao phối đẻ ra. Những con nhím cái mà đã mang thai với đực khác khi ghép đôi với đực mới thì khi đẻ ra con đực sẽ cắn chết ngay những con con này. Trong tự nhiên, nhím thường sống riêng lẻ, chỉ tới mùa sinh sản chúng mới tìm tới nhau để cặp đôi. Nhím đực chủ động đi tìm nhím cái. Do vậy, không nên nuôi thả từng bầy đàn, mà ghép chúng thành từng đôi nuôi riêng từng ô. Nhím không ưa nơi ẩm thấp, sũng nước hoặc những nơi quang đãng, trống trải.

- Nhím chủ yếu sinh hoạt về đêm. Mũi nhím rất thính, dùng để xác định đường đi, lối về. Nhím là loài vật nhút nhát, sợ sệt. Chúng luôn đề phòng những tiếng động xung quanh và chỉ chui ra khỏi hang khi thật yên tĩnh. Bản năng tự vệ của nhím là thụ động, không hung dữ như các loài khác, vũ khí tấn công kẻ thù chính là bộ lông.

II. Kỹ thuật nuôi nhím
1. Chuồng nuôi
- Đảm bảo thoáng mát, khô ráo, sạch sẽ, có rãnh thoát nước, hướng đông nam. Chuồng phải yên tính, tránh ồn ào, tránh gần đường qua lại, cách xa nhà ở và đứng cuối hướng gió.

- Hệ thống chuồng: Bao gồm nhiều ô để nhốt: khu nuôi nhốt có thể làm 1 hay nhiều dãy như bàn cờ, giữa các dãy có lối đi rộng 1m; có mương thoát nước nằm ở 2 bên chuồng. Diện tích chuồng nuôi trung bình 1m2/con. Mỗi ô có kích thước (rộng x dài x cao): 1 – 1,5m x 1,5m x 1 – 1,2m.

- Thành chuồng: có thể xây gạch hoặc khung lưới sắt (lưới thép ô vuông có đường kính sợi thép 1mm). Nếu là khung lưới sắt thì chân thành chuồng phải xây kín cao 20 – 30cm, để đề phòng chân con này thò sang chuồng con kia.

- Nền chuồng làm bằng bê tông hoặc bằng gạch dày 8 – 10cm, có độ nghiêng về phía rãnh ở phía sau từ 3 – 5 độ và có lỗ thoát nước đủ rộng để rửa chuồng. Xung quanh khu chuồng rào bằng lưới thép B40, cao trên 1,5m. Nên có cửa sau để dọn phân, cửa trước (30 x 40 cm) để có thể lùa nhím đi từ ô này tới ô khác và có máng ăn, uống cho nhím (20 x 25 cm).

2. Chọn nhím giống
Nên mua tại các cơ sở nuôi nhím có rõ nguồn gốc. Trong chọn giống cần quan tâm các yếu tố tạo nên lãi suất là: Đẻ sớm, đẻ mắn, đẻ sống nhiều, lớn nhanh, thịt ngon, tiêu thụ thức ăn ít. Các đặc điểm trên bao giờ cũng do bản chất di truyền và trình độ nuôi dưỡng của người chăn nuôi tạo nên.


3. Thức ăn
- Thức ăn cho nhím rất đa dạng và phong phú như: các loại củ, quả, rễ cây, lá cây, các loại rau, cỏ …, các loại côn trùng, sâu bọ, giun đất; xương động vật…

- Khẩu phần ăn cần cho một nhím trưởng thành:
+ Thức ăn thô: 0,5kg/con/ngày (lá sung, lá vả, lá dướng, dây khoai lang, thân cây lạc, cây ngô, lá keo dậu, lá mít, chè khổng lồ, các loại cỏ chăn nuôi…).
+ Thức ăn tinh: 0,3kg/con/ngày (ngô, sắn, hạt dẻ, hạt gắm, bí ngô…)
+ Thức ăn giàu vitamin: ổi xanh, chuối xanh, mơ, mận, quả sung, quả me…
+ Thức ăn khoáng: Muối 2 – 3g/con/ngày; Xương trâu, bò: 100 – 200g/con/ngày.

- Đối với nhím nuôi con, đặc biệt đối với nhím đẻ nhiều: 3 – 4 con, ngoài thức ăn như đã nói trên cần cho ăn thêm 0,2 – 0,3kg lạc nhân, đỗ tương (rang). Có thể cho ăn theo khẩu phần cơ bản dưới đây:


4. Sinh sản
- Nhím một năm tuổi đã thành thục, nặng 10kg, có thể sinh sản. Nhím đẻ một năm 2 lứa, mỗi lứa đẻ 1 – 3 con. Một nhím đực có thể phủ cho 5 – 8 nhím cái. Nuôi con đực và con cái riêng, mỗi con ở một ô, khi chúng có biểu hiện động dục thì ghép đôi giao phối.

- Động dục: Thời gian động dục một lần là 2 – 3 ngày, nếu phối giống không chửa, 30 – 32 ngày sau nhím động dục trở lại. Nhím mẹ động dục trở lại sau khi đẻ 1 tháng, nếu đẻ chết con thì sau đẻ 10 – 15 ngày. Biểu hiện động dục bên ngoài của nhím thường không rõ rệt. Những ngày động dục nhím cái tiết ra một ít chất nhờn lẫn máu, một vài ngày chất nhầy này khô đi và nhím trở lại bình thường. Nhím đực và nhím cái tìm đến nhau thông qua mùi của con cái và biểu hiện rung chuồng. Thời điểm phối thích hợp là sau khi nhím cái động dục.

- Giao phối: Nhím thường giao phối với nhau vào 2 – 5 giờ sáng. Thời gian ghép đôi giao phối từ vài ngày, đến vài tuần hay hàng tháng. Việc phối giống thành công rất quan trọng trong việc tăng đàn, vì thế người chăn nuôi hết sức lưu ý để phát hiện động dục, theo dõi lý lịch đầy đủ và cho phối kịp thời. Đối với các nhà chăn nuôi chưa có kinh nghiệm, nên chọn phương án ghép đôi 1 đực và 1 cái trong một ô nuôi suốt cả đời.

- Chửa: Thời gian mang thai của nhím từ 90 – 95 ngày. Bụng nhím thường to ra hai bên. Trong thời gian này nên tách hẳn đực giống để nhím cái được yên và không ăn tranh quá nhiều dễ bị to thai và khó đẻ.

- Đẻ: Nhím thường đẻ vào ban đêm, sau khi đẻ chúng để lại nhiều máu trên sàn chuồng. Trong tuần đầu nhím mẹ thường ủ con dưới bụng. Sau một tuần, chúng mới bắt đầu chạy ra khỏi bụng mẹ.

- Nhím con bú mẹ một tháng, sang tháng thứ hai nhím con ăn được các thức ăn như mẹ, tăng trọng bình quân 1kg/con/tháng. Có thể 30 – 45 ngày nếu nhím con khoẻ mạnh và nhím cái không còn nhiều sữa nữa. Nhím cái sau khi đẻ 1 tháng đã có hiện tượng động dục, trước khi cho nhím đực vào giao phối, đưa nhím con sang ô khác.

5. Chăm sóc nuôi dưỡng
- Cho nhím ăn, uống, nghỉ ngơi.
+ Cho nhím ăn nhiều loại thức ăn, chớ cho ăn đơn điệu để đảm bảo đủ chất dinh dưỡng; Cho ăn 2 bữa/ngày: bữa ăn chính (buổi chiều tối) và bữa phụ (buổi trưa).
+ Đối với nhím hậu bị hạn chế lượng thức ăn sao cho tăng trọng bình quân 0,8kg/con/tháng. Đối với nhím sinh sản, khi cho ăn cần phải xem xét từng con: Đối với con sắp phối giống, không nên cho ăn quá nhiều; Đối với nhím đang mang thai cần tăng cường thêm thức ăn tinh, đảm bảo đủ lượng xương. Tuy nhiên, luôn luôn phải đảm bảo lượng thức ăn xanh cho chúng.
+ Dùng phụ phẩm nông nghiệp cần rửa sạch, tránh ngộ độc. Cho nhím ăn đúng giờ quy định. Thức ăn là khâu then chốt khi nuôi nhím.
+ Nước uống: Nếu thức ăn nhiều nước như củ, quả thì có thể không cần cho uống nước. Tuy nhiên cần cho nhím uống tự do, trung bình 1 lít/5 con/ngày.
+ Ngủ - nghỉ ngơi: Nhím sinh hoạt về đêm, ban ngày ngủ từ 11 giờ sáng đến 3 giờ chiều, cần giữ yên tĩnh cho nhím ngủ.

- Cách nhốt/ghép đôi/ghép đàn: Nhím cái giống: nuôi riêng từng ô và có thể nuôi tại một ô suốt cả đời. Nhím đực giống: cũng nên nhốt từng cá thể ở từng ô riêng biệt. Không nên nhốt chung nhau vì rất hay đánh nhau. Nhím con mới đẻ ra ở chung với mẹ cho đến ngày cai sữa. Nhím nhỏ và hậu bị có thể nhốt chung nhau và phân theo lứa tuổi. Giai đoạn phối giống, nhím đực có thể nhốt chung với nhím cái. Thời gian ngắn – dài tuỳ theo chúng đã có “phối” thành công (chửa) hay không.

- Vệ sinh chuồng trại: Tiến hành vệ sinh chuồng nuôi chuồng trại hàng ngày . Mùa hè cần tắm cho nhím kết hợp với việc rửa sạch chuồng. Định kỳ quét vôi và phun thuốc diệt khuẩn khu vực chuồng trại.

- Chống cận huyết: Cần phải đánh số, ghi chép lý lịch của từng con để không bị nhầm lẫn trong khi ghép đôi giao phối.

* Lưu ý: Nên trao đổi đực giống giữa các đàn với nhau.

6. Phòng bệnh
Nhím ít mắc bệnh, chỉ thấy một số bệnh thông thường như tiêu chảy, giun, sán, ghẻ. Để phòng bệnh cho nhím cần thực hiện các nguyên tắc sau đây:
- Đảm bảo chuồng trại hợp vệ sinh.

- Đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng.

- Khi phát hiện bệnh có thể thông báo cho thú y nếu bệnh lạ và nặng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Bài đăng phổ biến